Bốn loại thuế, phí chiếm 38% giá xăng dầu

22/02/2022 06:30 Vũ Ninh

Mới đây, Bộ Tài chính đã có văn bản trả lời cử tri huyện Phú Xuyên (Thành phố Hà Nội) liên quan đề nghị nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế và phí cho phù hợp để giảm giá xăng dầu, góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân.

Bộ Tài chính cho biết từ đầu năm 2021 đến nay, giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tục thay đổi khó lường, trong đó có những đợt tăng, giảm với biên độ khá lớn.

Theo dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, giá xăng dầu thời gian tới sẽ còn diễn biến phức tạp, khó dự báo và sẽ chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, đặc biệt là các biện pháp can thiệp vào nguồn cung của các nước, các vấn đề chính trị ở một số khu vực cũng như sự phục hồi kinh tế của các nước trên thế giới sau đại dịch Covid-19.

Ở trong nước, để giảm thiểu ảnh hưởng do sự biến động giá xăng dầu trên thị trường thế giới, Liên Bộ Công Thương - Tài chính đã sử dụng hiệu quả Quỹ Bình ổn giá, đảm bảo phù hợp với quy định.

Với việc điều hành linh hoạt, phù hợp quy định, Bộ Tài chính cho biết giá xăng dầu trong nước đã có mức tăng thấp hơn mức tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới.

Cụ thể, từ cuối tháng 11-2021 đến nay, liên bộ đã 7 lần điều chỉnh giá xăng dầu trong nước để phù hợp với diễn biến giá xăng dầu trên thế giới (bao gồm điều chỉnh giảm và điều chỉnh tăng).

Về chính sách thuế, cơ cấu thuế, phí và các yếu tố cấu thành trong công thức giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, theo Bộ Tài chính, hiện các sắc thuế áp dụng đối với mặt hàng xăng dầu gồm: thuế nhập khẩu (đối với xăng dầu nhập khẩu), thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với xăng) và thuế bảo vệ môi trường (không thu phí, lệ phí đối với xăng dầu), đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn của Việt Nam.

So với nhiều nước trên thế giới, tỉ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung.

Tỉ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 45- 60% (ngoại trừ một số nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỉ trọng thấp hơn), trong khi đó, đối với Việt Nam, tỉ trọng thuế đối với xăng khoảng 38% và đối với dầu khoảng 20%.

Cũng theo Bộ Tài chính, trong giá bán xăng dầu còn có khoản chi phí vận chuyển, lợi nhuận định mức nhưng các khoản này cũng chỉ chiếm khoảng từ 5%-8% mức giá cơ sở của mặt hàng xăng dầu.

Về thuế nhập khẩu, Bộ Tài chính cho biết xăng dầu nhập khẩu hiện nay chủ yếu từ các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu, đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế.

Về thuế giá trị gia tăng, theo quy định hiện nay, áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; mức thuế suất 5% đối với một số nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu như nước sạch, sản phẩm nông nghiệp và mức thuế suất 10% đối với tất cả các hàng hoá, dịch vụ chịu thuế còn lại, trong đó có mặt hàng xăng dầu.

Về thuế tiêu thụ đặc biệt, hiện chỉ có mặt hàng xăng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất 10% (không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu các loại). Riêng xăng sinh học E5 có mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 8% và xăng E10 là 7%. Đây là mức trung bình thấp so với nhiều nước.

Về thuế bảo vệ môi trường, Bộ Tài chính cho biết Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng dầu, cụ thể: xăng (trừ ethanol) là 4.000 đồng/lít; dầu diezel, dầu mazut và mỡ nhờn: 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít.

Đối với các mặt hàng xăng sinh học như xăng E5, E10 - chứa 5-10% ethanol thì chỉ tính thuế bảo vệ môi trường đối với lượng xăng gốc hóa thạch kết cấu trong xăng sinh học.

Về các chi phí vận chuyển, định mức kinh doanh, lợi nhuận định mức, theo Bộ Tài chính, hiện nay, các khoản chi phí khác cấu thành trong giá cơ sở mặt hàng xăng dầu được quy định cụ thể tại Nghị định 83/2014, Nghị định 95/2021 và Thông tư 104/2021.

Các khoản chi phí này được rà soát, đánh giá hàng năm trên cơ sở các chi phí thực tế hợp lý, hợp lệ phát sinh tại các thương nhân, đầu mối kinh doanh xăng dầu.

Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính sẽ thực hiện thông báo điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

Hiện nay, toàn bộ các khoản chi phí định mức áp dụng trong công thức giá cơ sở chiếm khoảng từ 5- 8% mức giá cơ sở hiện hành.