Ballmer có thực sự là CEO 'thất bại' nhất của Microsoft?

01/08/2021 10:25 An DN/ Sina

Vào ngày 28 tháng 7, Microsoft đã công bố báo cáo tài chính cả năm 2021. Doanh thu hàng năm tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái và lợi nhuận ròng tăng 38% so với cùng kỳ năm ngoái. 46 năm sau khi thành lập, với tư cách là một gã khổng lồ kỳ cựu của Thung lũng Silicon, Microsoft vẫn đang phát triển ổn định

Chỉ một tháng trước, Microsoft đã trở thành công ty niêm yết thứ hai với giá trị thị trường trên 2 nghìn tỷ USD sau Apple. Thế giới tán thưởng nhiệt liệt dành cho CEO Satya Nadella đương nhiệm của Microsoft. Microsoft thậm chí đã phá vỡ tiền lệ và giao trọng trách chủ tịch kiêm CEO lên đầu ‘cậu bé vàng’ này.

Điều thú vị là, ít ai thấy rằng đằng sau việc Nadella “tái sinh Microsoft”, thực sự có một “vị thuyền trưởng cũ” đã nhấn nút để gã khổng lồ kỳ cựu này “khởi động lại” - Steve Ballmer.

Là cựu CEO của Microsoft, Ballmer giữ chức vụ trong 14 năm, chỉ có hai điều được biết đến nhiều nhất: một là nhân vật “thét ra sấm” tại Hội nghị các nhà phát triển và đấu trường NBA; hai là sự thành công đưa công ty “bỏ lỡ” cả kỷ nguyên di động, nhân tiện kéo theo thương hiệu Nokia cũ kỹ vào chỗ chết.

CEO thứ hai của Microsoft - Steve Ballmer

Cựu CEO Ballmer của Microsoft, người bị cư dân mạng trêu chọc suốt một thời gian dài, thực sự là người bất tài hay đã bị mọi người đánh giá thấp? Ông ấy đã để lại những gì đằng sau Microsoft phát triển mạnh mẽ ngày nay?

Sức ỳ của người khổng lồ

Steve Ballmer có lẽ là CEO “thảm nhất”.

Điều đáng xấu hổ nhất khi một CEO từ chức có lẽ chính là tiếng vỗ tay của thị trường. Khi có tin Ballmer từ chức CEO một năm sau đó vào năm 2013, giá cổ phiếu của Microsoft đã tăng 7,3%, mức tăng lớn nhất trong 4 năm. Điều này có vẻ hơi khó hiểu, trong mười bốn năm kể từ khi Ballmer được thăng chức CEO vào tháng 1 năm 2000, ông đã khiến doanh thu hàng năm của Microsoft tăng gần gấp bốn lần. Tuy nhiên, giá cổ phiếu chưa từng phục hồi và giá trị thị trường dao động quanh mức 300 tỷ USD.

Steve Ballmer và Bill Gates

Năm 1980, Ballmer gia nhập Microsoft theo lời mời của Gates. Công lao của ông đã luôn đồng hành cùng sự lớn mạnh của công ty. Đầu tiên, ông đã giúp Microsoft mua sản phẩm hệ điều hành QDOS, và sau đó QDOS được đóng gói thành MS-DOS của chính Microsoft và được ủy quyền cho IBM. Động thái này rất quan trọng, và gần như thiết lập sự thống trị của Microsoft trong hệ điều hành sau đó. MS-DOS không chỉ trở thành hệ điều hành mặc định của máy tính IBM mà còn được ủy quyền cho các nhà sản xuất máy tính tương thích khác. Ballmer đã sử dụng chiến lược $ 5 cho mỗi bản sao để nhanh chóng tăng sự phụ thuộc của các nhà phát triển và người dùng vào Microsoft.

Gates, người đã nhìn thấy giao diện người dùng đồ họa Macintosh của Apple, cũng bắt đầu nghiên cứu và phát triển Windows trong nội bộ. Chỉ là Windows 1.0 và 2.0 đã không thành công, thì Ballmer - người đứng ra phụ trách phát triển Windows, nhận thấy rằng tiến trình của sản phẩm này vẫn còn lạc hậu và đã phải chịu áp lực rất lớn. Mãi đến năm 1990, Windows 3.0 mới ra mắt và trong vòng vài tháng, nó đã phục hồi doanh số của IBM OS / 2 trong nhiều năm.

Khi trọng tâm của ngành công nghiệp thông tin chuyển từ máy tính lớn sang các công ty phần cứng và phần mềm PC, vào năm 1996, mặc dù doanh thu một năm chưa bằng một phần tư của IBM, nhưng giá trị thị trường của Microsoft đã lần đầu tiên vượt qua IBM. Theo thống kê vào thời điểm đó, Windows chiếm 86,3% hệ điều hành máy tính để bàn.

Khi đó, công ty với nền tảng kỹ thuật vững chắc cần lực lượng bán hàng để củng cố vị thế trên thị trường. "Khi Microsoft cách mạng hóa máy tính cá nhân trong những năm 80 và 90, bộ phận bán hàng của Microsoft đã phát triển về quy mô và tầm quan trọng. Dù là trong công ty hay các hội nghị trong ngành, cái đầu trọc sáng bóng, dáng người vạm vỡ và giọng nói vang dội của Ballmer đã trở thành một biểu tượng. Theo cách nói của Microsoft, nhân viên của Microsoft hoặc là Bill guy— nhân viên kỹ thuật, hoặc Steve guy — nhân viên bán hàng và tiếp thị.”, Reuters viết.

Thành công trong quá khứ của Microsoft có thể được tóm tắt là: Trong kỷ nguyên PC, hệ điều hành là giao diện giữa người vận hành và máy tính. Độc quyền hệ điều hành tương đương với việc nắm chắc phần thượng nguồn của chuỗi sinh thái phần mềm, và tất cả các phần mềm cần thiết đều dựa vào nó.

Tuy nhiên, Steve Jobs, một người sáng suốt, đã tóm tắt một cách độc đáo lý do tại sao Microsoft lại suy yếu, "Một công ty làm tốt như vậy, họ đổi mới, trở thành hoặc gần trở thành nhà độc quyền trong một lĩnh vực nào đó, và khi đó chất lượng sản phẩm trở nên không quá quan trọng nữa. Các công ty này đang bắt đầu coi trọng những nhân viên bán hàng xuất sắc vì họ mới là người viết lại số liệu doanh thu chứ không phải kỹ sư hay nhà thiết kế sản phẩm.”

Một số người nói rằng điều này đang ám chỉ đến Ballmer. Nhưng trên thực tế, Jobs đang nói: Đây là lựa chọn của người sáng lập, Bill Gates, và việc ông chọn CEO quyết định sự suy tàn của Microsoft.

Nhưng dưới góc nhìn của Bill Gates, Ballmer, với tư cách là một người có công với sự phát triển không ngừng của Microsoft trong kỷ nguyên PC, về mặt thành tích thì không có gì để chê cả. Ông đã hoàn thành sứ mệnh mà Bill Gates đã giao cho - đó là đưa giá trị của hệ thống Windows "đạt được mức cao nhất".

Trong những năm đầu tiên, Phố Wall yêu thích Microsoft hơn Apple, so với Apple luôn đưa ra các dự án mới, Microsoft dưới thời Ballmer ổn định hơn và có khả năng trình làng các báo cáo đẹp mắt. Ngay cả trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, doanh thu mạnh mẽ đã cho phép Microsoft có đủ tiền mặt bất chấp việc thắt chặt tín dụng. Windows XP, Windows 7, Office 2013 và các phần mềm khác được đánh giá cao đã được tung ra dưới sự kiểm soát của Ballmer. Năm 2006, hệ điều hành Windows đã giành được 96,97% thị trường, trong đó Windows XP chiếm 86,80%.

Những thành tựu sản phẩm chính của Gates và Ballmer trong nhiệm kỳ CEO của họ

 

Nhưng cũng giống như hai mặt của đồng tiền, việc tập trung quá mức vào con số tăng trưởng doanh thu đã dẫn đến việc quá ưa chuộng hai sản phẩm chủ lực là hệ điều hành Windows và bộ ứng dụng văn phòng Office, mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội khám phá công nghệ mới.

Trên thực tế, vào năm 1998, Microsoft đã phát triển nội bộ trình đọc sách điện tử màn hình cảm ứng, nhưng nó đã bị hủy bỏ vì nó không giống Windows. Thật không dễ gì thoát khỏi sức ì. Tại CES năm 2012, khi Ballmer được hỏi, "Microsoft sẽ làm gì tiếp theo", ông ấy trả lời, "Trong mọi trường hợp, tại Microsoft, không có gì quan trọng hơn Windows. '

Nhưng thế giới và thời thế đang thay đổi. "Thất bại" thực sự của Ballmer chính là việc ông tập trung vào kỷ nguyên PC đến cùng, và ông thức tỉnh quá chậm trước sự xuất hiện của một kỷ nguyên di động mới.

Năm 2001, Apple giới thiệu iPod. Hai năm sau, nội bộ Microsoft mới nghĩ tới giành lấy phần này của thị trường. Tin tức được đưa ra khiến nhiều người trong ngành dự đoán rằng Apple sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn, kết quả là vào năm 2006 khi máy nghe nhạc Zune của Microsoft được tung ra thị trường. Không có sự đổi mới về sản phẩm, với lợi thế về giá và thời kỳ “cửa sổ”, Zune chỉ chiếm 4% thị phần, trong khi số liệu năm 2009, iPod chiếm 71%. Cục đen này thậm chí còn được coi là một trò đùa trong bộ phim truyền hình Mỹ "The Big Bang Theory" cho đến tận ngày nay.

Microsoft Zune

Chỉ 45 ngày sau khi Zune ra mắt, chiếc iPhone thế hệ đầu tiên được ra mắt và thời điểm đó Ballmer đánh giá là nó sẽ không gây được tiếng vang.

Năm năm sau, chỉ riêng doanh thu iPhone của Apple đã vượt qua doanh thu tổng thể của Microsoft.

Ballmer cũng công khai bày tỏ sự tiếc nuối. Anh ấy nói trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2017, "Tôi quá chậm và không nhận ra sự cần thiết của các tính năng mới, đặc biệt là về phần cứng.” Harry Shum, cựu phó chủ tịch cấp cao của Microsoft, cũng nhớ lại một chi tiết khi làm việc với Ballmer, đó là ông thực sự do dự trong việc ra các quyết định về phần cứng.

“Trong nhiều năm, một quyết định rất đau đầu trong công ty là có nên sản xuất phần cứng hay không. Ballmer đã từng nói trong một cuộc họp rằng tối qua anh ấy về nhà và nghĩ đến việc chế tạo phần cứng, hôm sau anh ấy thức dậy và nghĩ về nó. Than ôi, anh ấy vẫn chưa thể làm được.”

Ballmer không phải là một người phi lý trí, và thậm chí có một chút “dũng cảm sau khi biết xấu hổ”. Sau khi nhận ra rằng mình sắp bỏ lỡ Internet di động, Microsoft không phải không có cố gắng. Microsoft ra mắt Windows Phone vào năm 2010, ba năm sau khi iOS và Android được phát triển. Năm 2013, Nokia cũng là hãng đi sau kỷ nguyên điện thoại thông minh, đã tung ra điện thoại di động Lumia 520 được trang bị Windows Phone 8. Với việc hai hệ thống chính là iOS của Apple và Android của Google đã chia đều thị trường di động, người ta đặt nhiều hy vọng vào hệ thống Windows Phone 8 của Microsoft.

Để hợp tác sâu sắc hơn, Ballmer, người đã nhận ra rằng thời đại này không thể bỏ lỡ, thậm chí còn sẵn sàng mua lại toàn bộ Nokia. Tuy nhiên, trong hồi ức của Nadella về việc mua lại kiểu “mất bò mới lo làm chuồng” này, đã bị ban giám đốc Microsoft phản đối, vì thực sự không có lý do gì khiến mọi người cần đến một hệ sinh thái điện thoại di động thứ ba. Trừ khi thay đổi các quy tắc của trò chơi.

Trên thực tế, cách đây vài năm, nội bộ đã xảy ra nhiều bất đồng quan điểm và tranh chấp quyết liệt. Trong năm 2008, các lô hàng PC toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, trong khi các lô hàng điện thoại thông minh lại tăng lên. Cũng trong năm tài chính 2009, doanh thu năm tài chính đầu tiên của Microsoft giảm so với cùng kỳ năm trước, điều này trực tiếp xác nhận sự bão hòa của thị trường PC, và công ty không tìm thấy điểm tăng trưởng kinh tế mới nào khác.

Giá cổ phiếu tiếp tục đi xuống và tụt hậu so với kỷ nguyên di động đã khiến ban giám đốc lo lắng. Ví dụ, ban giám đốc tin rằng các thiết bị như iPad gây ra mối đe dọa lớn đối với PC truyền thống, Nhưng Ballmer không đồng ý với một số biện pháp hấp tấp như chuyển trực tiếp hệ điều hành điện thoại di động sang máy tính bảng. Ông chịu áp lực to lớn của việc công ty phải đối mặt với áp lực cạnh tranh nhưng không thể nhanh chóng tìm ra lối thoát.

Có báo cáo vào năm 2011 rằng hành động chậm chạp của hội đồng quản trị ở một số lĩnh vực tuyến đầu đã khiến Ballmer phải điều chỉnh bộ phận quản lý cấp cao, và thậm chí nghiêm khắc hơn thì có thể là thay CEO.

Nhưng Ballmer kiên quyết muốn mua lại Nokia để “đánh một canh bạc”. Cuối cùng, khi ban lãnh đạo không đồng ý, Ballmer tức giận muốn ra đi để buộc ban lãnh đạo phải nhượng bộ.

Ballmer đứng đầu việc mua lại bộ phận điện thoại di động của Nokia

Nhìn lại, việc mua lại này không làm thay đổi kết quả của trò chơi. Đổi lại, Ballmer, người ban đầu dự định ra đi vào năm 2017, đã chọn “nghỉ hưu sớm” vào năm 2013.

Hành trình của Ballmer tại Microsoft có thể nói là đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của thời đại, nhưng ông cũng bỏ lỡ những cơ hội của thời đại.

Phải mạnh dạn, nhưng càng phải đúng

Ballmer không phải là CEO “tệ nhất”.

Nhiều vấn đề của Microsoft đã không xuất hiện khi Ballmer tiếp quản. Bỏ lỡ Internet di động, tình hình của Microsoft lúc đó quả thực phức tạp hơn. Do tranh chấp trình duyệt với Netscape vào năm 1995, nhóm đã tích hợp trình duyệt IE vào hệ thống Windows để giải quyết vấn đề này. Mặc dù IE đã chiếm lĩnh thị trường thành công nhưng nó đã dẫn tới một cuộc điều tra chống độc quyền đối với Microsoft.

Đối mặt với những cáo buộc từ chính phủ liên bang Hoa Kỳ, 40 bang của Hoa Kỳ và nhiều đối thủ cạnh tranh, Microsoft gần như bị chia cắt. Dù muốn đấu tranh đến cùng nhưng Bill Gates vẫn chế nhạo những lời thẩm vấn của các quan chức chống độc quyền trước tòa. Ballmer cho rằng đã đến lúc để sự việc lắng xuống và để sự chú ý của công chúng trở lại với chính hoạt động kinh doanh của Microsoft. Tuy nhiên, Microsoft vẫn mất hàng tỷ đô la do chống độc quyền.

Vì chống độc quyền nên Microsoft bắt đầu trở nên thận trọng, Gates cũng nhắc lại sau đó rằng sự cố này đã ảnh hưởng đến quá trình thăm dò sau này của công ty trong lĩnh vực di động. "Lúc đó chúng tôi chỉ hơi lơ là do vụ chống độc quyền và bỏ lỡ hệ điều hành di động, chúng tôi chỉ chậm ba tháng.”

Ballmer thực sự đã trải qua mười năm mờ mịt nhất của Microsoft, và điều này không thể hoàn toàn do ông ấy. Một số cư dân mạng kết luận rằng nhiệm kỳ của Ballmer được chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, Ballmer cảm thấy mệt mỏi khi phải đối phó với các vấn đề chống độc quyền, kinh tế và tin tức tiêu cực; Giai đoạn hai, Microsoft bước vào giai đoạn hoảng loạn, tụt hậu so với các đối thủ hàng đầu cần một loạt các biện pháp điên rồ để bắt kịp; Giai đoạn thứ ba, sản phẩm được phát hành vào năm 2012 khiến mọi người có cảm giác như “Microsoft cuối cùng cũng đã trở lại”, ít nhất bạn có thể thấy vị CEO này đang làm việc chăm chỉ.

Buổi phát hành Office 365

Điều quan trọng nhất để Ballmer trở thành một CEO có năng lực là trước khi rời đi, ông đã mở ra sự chuyển đổi tiếp theo của Microsoft sang nền tảng điện toán đám mây và phát hiện ra người lãnh đạo tiếp theo, Nadella.

Sau khi Amazon và Google liên tục thúc đẩy điện toán đám mây, Ballmer cũng đã công bố dịch vụ đám mây của Microsoft “Windows Azure” vào năm 2008. Ông ấy không chỉ là người bán hàng. Trong khi làm việc chăm chỉ để bảo vệ “di sản” của Gates, ông cũng có những kế hoạch và dự định dài hạn hơn cho tương lai.

Nhận thức nội bộ của Microsoft về việc điện toán đám mây là sớm hơn. Một ngày trong năm 2008, Ballmer gọi cho Nadella, với hy vọng rằng anh ấy sẽ lãnh đạo mảng kinh doanh quảng cáo và tìm kiếm trực tuyến (sau này là Bing), đây là một trong những nỗ lực đầu tiên của Microsoft đối với đám mây. Năm 2011, Nadella được chuyển sang chịu trách nhiệm STB (Bộ phận Máy chủ và Công cụ, sau này phát triển thành Bộ phận Kinh doanh Đám mây và Doanh nghiệp).

Kể từ đó, Ballmer đã tập hợp các tài năng điện toán đám mây xuất sắc trong nội bộ. Cho đến năm 2010, Microsoft có khoảng 40.000 nhân viên trên toàn thế giới tham gia phát triển phần mềm, trong đó khoảng 70% trong số họ chuyên về công việc liên quan đến đám mây. Vào thời điểm đó, Ballmer đã có một bài phát biểu tại Đại học Washington, rằng “Trong tương lai, Microsoft muốn tất cả mọi thứ liên quan đến điện toán đám mây.” Năm 2010, Microsoft lần đầu tiên phát hành bộ Office dựa trên điện toán đám mây-Office365 và bắt đầu xây dựng nền tảng đám mây cho dòng sản phẩm của Microsoft.

Dưới sự chỉ huy của Nadella, Microsoft đã có thể lật ngược tình thế đúng lúc, thời của Ballmer đóng vai trò to lớn trong việc tích lũy điện toán đám mây. Mặc dù chiến lược chuyển sang đám mây ban đầu của Ballmer không đạt được kết quả ngay lập tức, nhưng thực sự phần lớn là do sự phát triển của công nghệ mới vấp phải sự va chạm rất lớn khi đối mặt với một tổ chức “già cỗi”. Trước sức ì quá lớn như vậy, quả thực là quá tàn nhẫn khi để một ‘CEO cũ’ tham gia đắp nặn sức ì này thay đổi thế giới từ chính ông ấy.

Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, Microsoft luôn được cho là theo sau Google, Apple và Amazon trong các sản phẩm

Kể từ năm 2008, Azure (hay Red Dog) ấp ủ chống lại Amazon AWS trong STB (Bộ phận Máy chủ và Công cụ). Nadella nhanh chóng phát hiện ra vấn đề, để theo đuổi các hiệu ứng cục bộ, STB say mê phục vụ khách hàng hiện tại và từ chối tính năng mới của dịch vụ đám mây. Nhóm Red Dog đã bị cho ra rìa và bị ban lãnh đạo STB bỏ qua. Sau đó, người phụ trách viết trong email từ chức, “một sự thật không thể chối cãi là trong bất kỳ tổ chức lớn nào, bất kỳ sự chuyển đổi khó khăn nào cũng phải được phá vỡ từ bên trong.”

Ballmer gia nhập Microsoft với tư cách là nhân viên thứ 30. Khi anh rời đi, Microsoft đã là một công ty lớn với 100.000 nhân viên. Là người lãnh đạo của một công ty, kết quả không muốn thấy nhất là tổ chức quá lớn và trở nên chậm chạp tầm thường, do đó bỏ lỡ cơ hội.

Nadella đã đề cập đến các vấn đề của tổ chức tại thời điểm đó trong "Hit Refresh". Vấn đề rất thực tế là những đột phá công nghệ của Microsoft vào thời điểm đó đã bị giới hạn bởi những khiếm khuyết của tổ chức. Những gì còn lại đối với Nadella là một tổ chức khổng lồ và già cỗi. Lợi thế của các bộ phận khác nhau chưa được tích hợp lại và chúng đang đấu tranh lẫn nhau. Tuy nhiên, sự thay đổi này phải từ trên xuống dưới.

“Anh ấy bảo tôi hãy vứt bỏ quá khứ đi, hơn ai hết anh ấy hiểu rõ công ty này cần phải thay đổi.” Nadella nói rằng Ballmer đã nói với anh ta như vậy.

Satya Nadella và Ballmer

Nếu chúng ta quay trở lại năm 2013, ban giám đốc sẽ tiếp tục thúc giục ông ấy hành động nhanh chóng, việc mua lại Nokia là một canh bạc cuối cùng, và những nghi ngờ từ bên trong lẫn bên ngoài Microsoft về sự thay đổi do chính lãnh đạo của họ thúc đẩy và thực tế là việc đổi mới kinh doanh không suôn sẻ… Tất cả những điều này khiến Ballmer đạt đến “giới hạn'” và chấp nhận rằng ông ấy không còn là “người tốt nhất” để dẫn dắt Microsoft nữa.

Khi Ballmer đã hoàn thành sứ mệnh của thời đại thuộc về ông ấy, thì trong thời đại không thuộc về ông, điều tốt nhất mà ông có thể làm là giao Microsoft cho những người phù hợp với thời đại đó càng sớm càng tốt.

Trước khi rời nhiệm sở, Ballmer đã công bố kế hoạch tái cấu trúc để thực hiện chiến lược "thiết bị và dịch vụ". Thiết bị đại diện cho phần cứng và dịch vụ đại diện cho đám mây. Trên thực tế, điều này không khác những gì ông đã bày tỏ tại Đại học Washington. “PC đã không còn giống như PC của 5 năm trước, nó liên quan nhiều đến đám mây. Điện thoại di động cũng không giống như điện thoại di động cách đây 5 năm, và chắc chắn chúng sẽ khác trong 5 năm tới.”

Cuối cùng thì phần cứng của Microsoft không phải là một thành công lớn, nhưng quá trình “đám mây hóa” của Microsoft đã mang lại kết quả tuyệt vời. Nếu không có màn "phá bỏ" sức ì lịch sử của Ballmer, sẽ không có Nadella có thể cầm điện thoại di động Apple lên sân khấu, rồi bình thản đối mặt với tiếng cười của khán giả và nói: "Tôi rất tự hào. Nó chứa đựng tất cả sản phẩm của Microsoft”. Ông cho phép giá trị của Microsoft vượt qua cái gọi là sự do dự giữa phần mềm hay phần cứng và thăng hoa lên “đám mây”.

“Ballmer đã gieo rất nhiều hạt giống, đó đều là những nước đi chiến lược đúng đắn.” Một nhà phân tích cho biết, "Sự khác biệt thực sự là trong quá trình thực hiện. Nadella đã có thể làm cho những hạt giống này nảy mầm”.

Vào thời điểm “bàn giao”, Ballmer nói với Nadella rằng: Be bold. But be right (Phải mạnh dạn, nhưng càng phải đúng). Theo phong cách của Ballmer, anh ấy vỗ vai Nadella bằng một tay, và một tay kia vẫn đặt trên giấy với một năng lượng tràn đầy. Nhưng mà, câu nói này dường như cũng chính là nói với bản thân ông ấy trong 14 năm qua, một nửa là để nâng cao tinh thần, một nửa thì không che giấu được suy tư.

Nhưng sau tất cả, ông ấy không hối tiếc.