Công nghệ số sẽ đóng góp 74 tỷ USD cho Việt Nam năm 2030

19/10/2021 11:03 Quảng Dương

Tiềm năng phát triển kinh tế số

Theo báo cáo “Tiềm năng kinh tế số Việt Nam” do AlphaBeta phát hành, Việt Nam là quốc gia có nhiều cơ hội để hưởng lợi từ nền kinh tế số với 70% dân số dưới 35 tuổi am hiểu về công nghệ, 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh và Việt Nam có nền kinh tế internet tăng trưởng nhanh thứ 2 Đông Nam Á (sau Indonesia).

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho rằng với nhiều quốc gia trên thế giới, kinh tế số đang trở thành đặc trưng và xu hướng phát triển quan trọng.

“Đối với Việt Nam, trong bối cảnh bị tác động nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19, chúng ta cần đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Để hướng tới nền kinh tế không cần tiếp xúc và trở thành nền kinh tế bậc cao, chuyên gia kinh tế trưởng và quản lý chương trình kinh tế vĩ mô, thương mại và đầu tư, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) Jacques Morisset khuyến nghị, cần tập trung 3 ưu tiên để khai thác chuyển đổi số: nâng cấp kỹ năng số cho người lao động, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và tăng cường khả năng tiếp cận và chất lượng thông tin.

Ông Jacques Morisset cũng phân tích về những điểm sáng trong bối cảnh dịch Covid-19 mà Việt Nam đã vượt qua khó khăn và đạt được, như: 60% doanh nghiệp sử dụng các nền tảng và công cụ trực tuyến; Chính phủ điện tử cung cấp trên 2.000 thủ tục trực tuyến đã làm đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi số ở Việt Nam...

Ngoài ra, Báo cáo “Tiềm năng kinh tế số Việt Nam” cũng cho thấy, nếu được tận dụng tối đa trong nền kinh tế, công nghệ số có thể đem lại hơn 1,733 triệu tỉ đồng (74 tỉ USD) cho Việt Nam vào năm 2030, khoản tiền này tương đương 27% GDP của Việt Nam trong năm 2020. Dự kiến, các lĩnh vực được hưởng lợi nhiều nhất là sản xuất, nông nghiệp và thực phẩm, giáo dục và đào tạo.

“Việc không dành nhiều quan tâm đến tác động của công nghệ số trong các lĩnh vực truyền thống ở Việt Nam như sản xuất, sẽ dẫn đến rủi ro bỏ qua các tác động chuyển đổi của công nghệ.

Công nghệ số được áp dụng vào các ngành truyền thống có tiềm năng cách mạng hóa cách thức hoạt động của doanh nghiệp”, báo cáo nhận định.

Tiềm năng kinh tế số của Việt Nam là rất lớn

Nhóm công nghệ chủ chốt

Theo báo cáo, 8 công nghệ chủ chốt có tiềm năng đóng góp vào kinh tế số của Việt Nam bao gồm (1) Internet di động; (2) điện toán đám mây; (3) dữ liệu lớn; (4) trí tuệ nhân tạo (AI); (5) công nghệ tài chính (fintech); (6) Internet vạn vật (IoT) và viễn thám; (7) robot tiên tiến và (8) chế tạo đắp lớp (Additive Manufacturing).

Dự kiến, các mô hình kinh doanh mới sẽ giúp tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí năng suất cho doanh nghiệp. Các công nghệ này có thể tạo nên giá trị kinh tế đáng kể đối với các doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP.

Ngoài ra, báo cáo cũng cho thấy việc áp dụng kỹ thuật số cũng rất thiết yếu để Việt Nam ứng phó và phục hồi trong cuộc khủng hoảng Covid-19 và sau đại dịch.

“Bằng cách hỗ trợ doanh nghiệp kết nối với khách hàng thông qua công nghệ số và giảm thiểu tắc nghẽn hậu cần (logistics) do gián đoạn chuỗi cung ứng, công nghệ có thể giúp doanh nghiệp kiểm soát các tác động nghiêm trọng của Covid-19.

Ước tính khoảng 70% tổng cơ hội kỹ thuật số của Việt Nam (tương đương giá trị 1,216 triệu tỷ đồng khoảng 52 tỷ USD) có thể xuất phát từ những ứng dụng công nghệ như vậy”, báo cáo nhấn mạnh.

Để hiện thực hóa những tiềm năng này, theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với nhiều tổ chức quốc tế, các tập đoàn lớn của thế giới để trao đổi, tham mưu đề xuất các vấn đề lớn về cơ chế, chính sách nhằm định hướng phát triển, tối ưu nguồn lực cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi mô hình kinh tế truyền thống sang kinh tế số.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, dù có nhiều thuận lợi nhưng Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số rào cản để có thể khai thác tối đa các lợi ích công nghệ số.

Những rào cản này bao gồm: Các quy định pháp lý có thể hạn chế Việt Nam đạt đến tiềm năng tối đa của hệ sinh thái công nghệ trong nước, hạn chế khả năng kết nối kỹ thuật số, cũng như thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng số hay các vấn đề về kết nối.

Đây là những rào cản trọng yếu cần được giải quyết để Việt Nam có thể khai thác tối đa tiềm năng kinh tế của mình bằng công nghệ”, báo cáo nêu.